cửa hàm tử bắt sống toa đô

Cũng theo VKSND tỉnh Tuyên Quang, ban đầu xác định, sau khi mâu thuẫn đánh vợ, Nguyễn Huy Diễn đến cây xăng tại khu vực Km25, Quốc lộ 2 đường Tuyên Quang - Hà Giang, thuộc xã Thái Hòa, huyện Hàm Yên mua 100 ngàn tiền xăng đựng vào can nhựa, viết thư để lại, rồi đổ xăng đốt tại buồng ngủ các con của Diễn. Thứ Sáu, 27/05/2022, 14:36 (GMT+7) Chiều 26/5, người dân và cơ quan chức năng phát hiện 4 người trong cùng gia đình tử vong tại căn hộ cao cấp trên địa bàn quận Hoàng Mai, Hà Nội. Liên quan vụ việc 4 người trong cùng gia đình tử vong, theo thông tin ban đầu, anh N.H.H., 43 tuổi, được phát hiện tử vong tại phòng khách trong căn hộ ở Khu đô thị T.. Những tông màu tươi sáng của trang phục sẽ giúp tinh thần phái đẹp phấn chấn, lạc quan hơn thay vì chỉ trung thành với tông - trắng đen tối giản. Chợ Điện Tử Nhật Tảo Tp Hcm. Đã bước đi vào ngành kỹ thuật, với là đồng đội sinh sinh sống trong miền Nam. Ắc hẳn các bạn cũng vẫn một lần mang lại với quần thể chợ linh phụ kiện điện tử nổi tiếng nói cách khác là bên trên cả nước, và bắt đầu đây anh em Vào 0 giờ ngày 23-3-2020, Nguyễn Thanh Tâm cầm đoạn gỗ dài 76cm lẻn vào chùa, đến trước phòng sư thầy Thích Nguyên Lộc giật mạnh cửa phòng. Lúc này, chị Nguyễn Bảo Yến (19 tuổi, phật tử trong chùa) phát hiện la lên liền bị Tâm dùng khúc gỗ đánh mạnh vào đầu. Thầy Site De Rencontre Gratuit 07 26. Bến Hàm Tử ở Hải PhòngBến Hàm Tử là bến sông bắt đầu từ đầu cầu Quay đến phố Trần Nguyên Hãn Bản đồ thời Pháp thường ghi từ phố Tam Kì đến phố Hải Dương. Bến Hàm Tử dài 476m, rộng 4m, trước cách mạng tháng Tám năm 1945 thuộc đất xã An Dương, trước giải phóng Hải Phòng năm 1955 thuộc khu Đường Cát. Tuy chỉ là bến tàu sông nội địa nhưng ở vào vị trí gần các chợ Sắt, An Dương và nằm ở địa đầu ngã ba sông nơi giao nhau của sông Tam Bạc và sông Cấm nên trước kia bến này cũng khá sầm uất, tấp nập cảnh trên bến dưới Hàm Tử lúc mới mở gọi là Keđờ l’abatoa Quai de Lábattoir nghĩa là bến Lò sát sinh, vì đầu bến nối tiếp với phố Abattoir. Nhân dân quen gọi là bến Tam Kì vì ở đây có ngôi đền thiêng mang tên Tam Kỳ; sau cách mạng tháng Tám thì bến dùng tên dân gian này, từ năm 1954 đổi mang tên như hiện nay – bến Hàm Tử, một địa danh nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược của quân và dân Đại Hàm Tử trước kia chỉ có kho, bãi, quán trọ, kể cả lô đất ở Bệnh viện Đông Y nguyên là nhà thương Hoa Kiều và sau này bệnh viện Đông Y giải thể để làm bến xe đi các tỉnh. Nay tất cả khu vực này đã được san lấp, xây dựng thành công viên Tam Kỳ – điểm nhấn quan trọng trong dải vườn hoa Trung tâm thành phố Hải Phòng kéo dài từ đập Tam Kỳ đến cổng Cảng chính. Công trình kiến trúc cũ còn lại chỉ còn đền Tam Kì. Hiện nay bến chỉ còn trong ký ức của người dân Hải Phòng vì nơi đây đã hoàn toàn thay đổi, không còn là một bến sông với cầu Quay nay gọi là cầu Tam Bạc khu vực này hợp với phố đi bộ ven sông Tam Bạc tạo thành khu vực có cảnh quan đẹp của thành phố, nhất là về đêm dưới ánh sáng đèn màu lung linh của cây cầu Tam Bạc soi bóng xuống dòng Hàm Tử ở Hưng Yên gắn với địa danh Tây Kết, Chương DươngXin nói khái quát về địa danh Hàm Tử – nơi diễn ra trận kịch chiến giữa quân đội nhà Trần do tướng quân Trần Nhật Duật chỉ huy với đạo quân thủy của Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy. Tranh minh họa tướng quân Trần Nhật Duật cùng đội quân thủy do ông chỉ huy. Trần Nhuật Duật là con trai thứ 6 của vua Trần Thái Tông, chỉ huy trận đánh Hàm Tử bắt sông tướng giặc Nguyên Mông là Toa Hàm Tử là trận đánh quan trọng của quân đội nhà Trần do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật con trai thứ sáu của vua Trần Thái Tông chỉ huy với quân Nguyên Mông do Toa Đô chỉ huy trong cuộc Kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược năm 1285. Cửa Hàm Tử xưa thuộc xã Hàm Tử bên tả ngạn sông Hồng, gần bãi Màn Trù, nay là xã Hàm Tử, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trận Hàm Tử diễn ra trên đoạn sông Hồng từ ngã ba sông Luộc đến Thăng Long mà điểm quyết chiến là khu vực từ Tây Kết đến Hàm Tử, Chương Dương. Trận Hàm Tử diễn ra nhằm phá tan tuyến phòng thủ của quân Nguyên Mông trên sông Hồng, cắt đứt đường hội quân của Thoát Hoan đóng ở Thăng Long – trên bờ bắc sông Hồng và quân Toa Đô từ Nghệ An về Thăng Long theo đường thuỷ dọc sông quyết chiến tại cửa Hàm Tử diễn ra vào cuối tháng 5/1285. quân do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật chỉ huy cùng với quân của viên tướng Triệu Trung nhà Nam Tống đã nhanh chóng giành thắng lợi. Chiến thắng trận Hàm Tử góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, quét sạch quân giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi, giải phóng hoàn toàn Đại Việt buộc Tổng chỉ huy quân địch là Thoát Hoan phải rút chạy về nước vào tháng 6 năm thắng Hàm Tử là một chiến công vang dội trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Vì vậy địa danh Hàm Tử đã được đặt tên cho nhiều đường phố ở Hà Nội và các nơi, trong đó có Hải Phòng như để nhắc nhở về hào khí Đông A thủa xưa. Bài văn mẫu lớp 10Phân tích đoạn thơ đầu trong Bình Ngô đại cáoKhái quát về tác giả Nguyễn Trãi1. Tiểu sử tác giả Nguyễn Trãi2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn TrãiPhân tích đoạn thơ trong Bình Ngô đại cáo mẫu 1Phân tích đoạn thơ trong Bình Ngô đại cáo mẫu 2Phân tích đoạn thơ trong Bình Ngô đại cáo mẫu 3Phân tích đoạn 1 bài thơ Bình Ngô đại cáo mẫu 4VnDoc xin giới thiệu Văn mẫu lớp 10 Phân tích đoạn thơ "Từng nghe, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân... cho đến Chứng cứ còn ghi" - Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi để bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết gồm các bài văn mẫu lớp 10 hay dành cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết môn Ngữ văn 10 sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết dưới đây quát về tác giả Nguyễn Trãi1. Tiểu sử tác giả Nguyễn TrãiNguyễn Trãi 1380 - 1442 hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại Chí Linh, Hải Dương sau dời về Nhị Khê Thường Tín, Hà Tây, nay thuộc Hà Nội. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh một nhà nho nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh Tiến sĩ thời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan tư đồ ngang Tể tướng Trần Nguyên Trãi sinh ra trong một gia đình mà bên nội cũng như bên ngoại đều có hai truyền thống lớn yêu nước và văn hóa, văn 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, cùng cha làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 14074, giặc Minh cướp nước, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi khắc sâu lời dạy của cha, sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh ông tìm vào Lam Sơn theo Lê Lợi khởi năm 1427 đầu năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, Nguyễn Trãi hăm hở tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên do mâu thuẫn nội bộ triều đình, ông bị bắt giam và không còn được tin tưởng như trước, Nguyễn Trãi xin về ở ẩn ở Côn 1440, ông được Lê Thái Tông mời ra giúp việc nước. Năm 1442, Nguyễn Trãi bị oan án Lệ Chi viên và bị tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi sau đó cho sưu tầm lại thơ văn của ông và tìm con cháu còn sống sót để bổ làm Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn. Năm 1980, UNESCO đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế Sự nghiệp văn học của Nguyễn TrãiNguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc nhất. Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt các áng văn chính luận của Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc tích đoạn thơ trong Bình Ngô đại cáo mẫu 1Nguyễn Trãi 1380 – 1442 là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc m thi tập, Ức Trai thi tập… Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràngViệc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạoNhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lý. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc“Như nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khác”Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lậpĐến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thôn tính Đại năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc về bờ cõi, phong tục- hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhấtVậy nênLưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm Tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xétChứng cứ còn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo tích đoạn thơ trong Bình Ngô đại cáo mẫu 2Năm 1407, giặc Minh kéo sang xâm lược nước ta. Chúng đã “gây binh kết oán trải hai mươi năm – Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” gây nên bao tội ác, bao thảm họa cho đất nước ta, nhân dân ta“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tộiDơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”Năm 1814, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại rừng núi Lam Sơn – Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu gian lao và anh dũng, quân ta đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập, tự do cho đất nước và dân xuân năm 1428, Nguyễn Trãi đã thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô đại cáo", tổng kết những chiến công oanh liệt trong 10 năm kháng chiến và tuyên bố Đại Việt bước sang một kỉ nguyên mới “Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.Phần đầu “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, đồng thời ca ngợi nền văn hiến rực rỡ lâu đời của Đại nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, tất cả đều hướng về con người, về nhân dân đang bị áp bức lầm than. Thương dân, đánh kẻ có tội điếu phạt, tiêu diệt lũ tham tàn, bạo ngược trừ bạo, cứu nhân dân thoát khỏi chết chóc đau thương, đem lại cuộc sống yên vui hạnh phúc cho nhân dân yên dân, đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao đẹp đánh giặc để cứu nước, cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Việc nhân nghĩa nên rất chính nghĩa. Nhân nghĩa là sức mạnh vô địch để chiến thắng quân “cuồng Minh”.“Đem đại nghĩa để thắng hung tànLấy chí nhân để thay cường bạo”.Nhân dân ta giàu nhân nghĩa nên lấy nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời, rực rỡ của Việt Nam. Nếu ở “Nam quốc sơn hà”, Lý Thường Kiệt chỉ mới nói đến sông núi nước Nam là nơi “Nam đế cư”, lãnh thổ thiêng liêng ấy đã được “định phận rõ ràng ở sách Trời”, thì ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đứng trên đỉnh cao thời đại “Bình Ngô” đã có một cái nhìn mới sâu sắc và toàn diện về đất nước, nhân dân Đại Việt“Như nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có”.Nước Đại Việt đâu phải “man di mọi rợ” mà rất đáng tự nền văn hiến đã lãnh thổ, núi sông, bờ thuần phong mĩ nền độc lập trải qua nhiều triều đại “xưng đế một phương”.Có nhân tài hào yếu tố ấy hợp thành đã tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược bành trướng của Thiên Triều, lập nên bao chiến công chói lọi.“Lưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm Tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã".Giọng văn đĩnh đạc hào hùng. Lí lẽ sắc bén, đanh thép và lối diễn đạt sóng đôi, cân xứng của những câu văn biền ngẫu đã khẳng định và ngợi ca tầm vóc lịch sử lớn lao của Đại Việt, biểu lộ một ý chí, tự cường dân tộc cao mở đầu đã góp phần thể hiện tuyệt đẹp giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”, bản Tuyên ngôn Độc lập, áng “thiên cổ hùng văn” của dân tích đoạn thơ trong Bình Ngô đại cáo mẫu 3Mở đầu đoạn trích, tác giả đã thể hiện lòng tự hào dân tộc qua việc nêu cao nguyên lý nhân nghĩa, là nguyên lý cơ bản làm nền tảng, cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa.“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạo”.Nhân nghĩa vốn là khái niệm đạo đức của Nho giáo nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân làm gốc và mở rộng khái niệm nhân nghĩa. Nhân nghĩa không những trong quan hệ giữa người với người mà còn có trong quan hệ giữa dân tộc với dân tộc. Đây là nội dung mới, sự phát triển tư tưởng mới về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi so với Nho giáo. Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” nghĩa là nhân dân được sống yên vui, hạnh phúc. Mà muốn yên dân thì trước hết phải tiêu diệt những kẻ tàn ác, bạo ngược để bảo vệ dân lành. Người dân mà tác giả nói đến ở đây là những người dân Đại Việt đang phải chịu bao đau khổ dưới ách thống trị của giặc Minh. Những kẻ bạo ngược mà tác giả nói đến ở đây là những kẻ đã gây ra biết bao đau thương, khổ cực cho nhân dân ta, đó chính là quân xâm Minh nói riêng và bề lũ xâm lược nói chung. Đối với Nguyễn Trãi yêu nước gắn liền với đánh giặc để cứu nước cứu dân, vì độc lập của đất nước, vì tự do, hạnh phúc, hòa bình của nhân dân. Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lí tưởng xã hội tiến bộ, tích cực, nhân quyền dân tộc phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị vào nhân nghĩa và chính tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi mà nó đã trở thành sức mạnh vô địch để nghĩa quân của ta chiến thắng giặc khi tuyên ngôn về nhân nghĩa, tác giả đã thể hiện lòng tự hào dân tộc qua việc tuyên ngôn về nền độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt“Như nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cỡi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lậpCùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phươngTuy mạnh yếu từng lúc khác nhauSong hào kiệt đời nào cũng có”Nguyễn Trãi đã đưa ra những yếu tố căn bản để xác định độc lập, chủ quyền dân tộc nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ riêng với “hào kiệt đời nào cũng có”. Những thực tế khách quan mà tác giả đưa ra là chân lí không thể phủ nhận. Khi nêu chân lí khách quan, Nguyễn Trãi đã phát biểu đồng thời một cách hoàn chỉnh quan niệm của mình về quốc gia, dân tộc. Người đời sau vẫn thường xem đoạn thơ trên là tiêu biểu và kết tinh học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và thực tiễn. Quả đúng như vậy! Người anh hùng Nguyễn Trãi đã tự tin khẳng định truyền thống văn hiến lâu đời của nước Việt ta, được hình thành từ khi đất nước ta tồn tại theo hàng nghìn năm lịch sử đã tạo nên một diện mạo riêng của dân quả thực chúng ta rất tự hào bởi trên thực tếNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácNhân dân ta có chủ quyền, có thuần phong mỹ tục riêng làm nên hai phương Bắc – Nam khác biệt. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ ta tự hào về những trang lịch sửTừ Triệu Đinh Lí Trần bao đời xây nên độc lậpCùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phươngTa có nền độc lập vững vàng được xây bằng những trang sử vẻ vang, có tổ chức nhà nước với người đứng đầu là vua. Việc xưng đế đã thể hiện ý chí tự tôn dân tộc. Bởi lẽ trong quan niệm ngày xưa, chỉ có Trung Hoa được xưng đế còn vua của nước nhỏ chỉ được xưng chư hầu không được xưng đế. Việc xưng đế đã khẳng định chắc nịch một điều ta và Trung Hoa là những nước độc lập bình đẳng với nhau. Chính vì vậy không có lí do gì để Trung Hoa kéo quân xâm lược nước thế nữa, bao đời nayTuy mạnh yếu từng lúc khác nhauSong hào kiệt đời nào cũng có”Điều quan trọng làm nên sự thịnh vượng của một quốc gia không thể không kể đến yếu tố nhân tài. Nhân tài chính là vận mệnh đất nước. Trong cả một quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước đã có biết bao nhiêu vị anh hùng làm rạng danh non sông cũng như có biết bao nhiêu thế hệ với ngàn ngàn lớp lớp người vô danh đã ngã xuống để bảo vệ độc lập dân tộc. Câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại giả đã sử dụng nhiều lớp từ ngữ diễn đạt tính chất hiển nhiên, vốn có lâu đời của nước đại việt ta. các từ như từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác,… Bên cạnh đó, biện pháp so sánh kết hợp với liệt kê cũng tạo cho đoạn văn hiệu quả cao trong lập luận tác giả đặt nước ta ngang hàng với Trung Hoa về nhiều phương diện như trình độ chính trị, văn hóa,…, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Đặc biệt, những câu văn biền ngẫu, chạy song song liên tiếp với nhau cũng giúp cho nội dung chân lí mà tác giả muốn khẳng định chắc chắn và rõ ràng với ý thức về quốc gia dân tộc trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc – bài thơ “Nam quốc sơn hà” thì học thuyết về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi phát triển cao hơn bởi tính toàn diện và sâu sắc của nó. Toàn diện vì ý thức về dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt mới chỉ ra độc lập dân tộc trên lĩnh vực cương vực lãnh thổ và căn cứ mà Lí Thường Kiệt xác định tại sách trời ở trong câu “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, nhưng đối với Nguyễn Trãi, ý thức về độc lập dân tộc còn được mở rộng, bổ sung thành các yếu tố mới đó là nền văn hiến lâu đời, đó là phong tục tập quán riêng, truyền thống lịch sử anh hùng, hào kiệt, ông lấy thực tiễn lịch sử là căn cứ xác định độc lập dân tộc chứ không ở “thiên thư” – sách trời. Sâu sắc ở chỗ trong quan niệm về dân tộc, Nguyễn Trãi đã ý thức được “văn hiến”, truyền thống lịch sử là yếu tố cơ bản nhất, là hạt nhân để xác định dân tộc. Với những yếu tố căn bản này, Nguyễn Trãi đã phát biểu một cách toàn diện hơn, tiến bộ hơn quan niệm về quốc gia dân tộc. Tất cả các yếu tố đó tạo nên tầm vóc Đại Việt, sức mạnh Đại Việt để đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ cùng niềm tự hào dân tộc còn được tác giả khẳng định qua sức mạnh nhân nghĩaVậy nên“Lưu Cung… Chứng cớ còn ghi”Đây là những chứng cớ về những chiến công đã từng được ghi trong sử sách có sức thuyết phục cao mang tính hiển nhiên. Kẻ nào đến xâm phạm nước ta chắc chắc sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong. Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Kẻ nào đến xâm lược nước ta chắc chắn sẽ bị trừng trị chuốc lấy bại vong. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo tích đoạn 1 bài thơ Bình Ngô đại cáo mẫu 4Nguyễn Trãi không chỉ là một bậc quân thần yêu nước mà ông còn có tài năng văn thư độc nhất vô song. Đặc biệt, trong gia tài văn học đồ sộ của thi hào, thì “Bình ngô Đại Cáo” vẫn được coi là “áng thiên cổ hùng văn” giữa dòng chảy lịch sử của thời đại. Dẫu qua bao nhiêu thế hệ vẫn lưu danh sử sách muôn đời. Đoạn thơ một trích trong “Bình ngô Đại Cáo” một lần nữa đã cho thấy sự mới mẻ, tiến bộ trong cách nhìn, cũng như quan niệm về độc lập, chủ quyền và những giá trị nhân văn cốt lõi cao đẹp của Nguyễn Trãi.“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạo”“Nhân nghĩa” là tư tưởng cốt lõi, xuyên suốt cả tác phẩm Bình ngô đại cáo, đó là tư tưởng yêu thương dân, mà rộng hơn là lòng thương người , đồng thời cũng là sự đề cao những hành động chính nghĩa, xả thân vì lý tưởng lớn, không vì quỷ kế hèn mọn mà chịu khuất phục. Tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi được ảnh hưởng khá nhiều bởi tư tưởng của đạo Phật, do đó mà thấm nhuần tính nhân văn và những chân giá trị truyền thống của dân tộc. Nhân nghĩa với Nguyễn Trãi là “yên dân”, nghĩa là làm sao để nhân dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, an lạc, thái bình, thịnh trị, không có chiến tranh loạn lạc xảy ra khắp nơi. Muốn được như thế, điều mà quân điếu phạt phải làm, cần phải nêu cao đó là “trừ bạo”. Chỉ khi diệt trừ các thế lực bạo tàn, đang lăm le xâm lược bờ cõi nước ta thì dân chúng may ra mới không phải chịu cảnh loạn lạc, tan tác thương vong và được sống trong yên ổn. Chỉ những gì xuất phát từ trái tim mới có thể “chạm đến hồn muôn người”, tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi không gì hơn đã khiến độc giả cảm động bởi tấm lòng yêu thương dân đen con đỏ, một lòng vì nước, vì dân. Do đó, nó là chân giá trị được ngợi ca và truyền tụng bao thế những trở trăn khôn nguôn về việc nước tình dân, nhà thơ phóng chiếu cái nhìn của mình về vấn đề chủ quyền dân tộc, về độc lập, tự do của giang sơn“Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng có".Trong đoạn thơ trên, một lần nữa thi hào Nguyễn Trãi khẳng định nền văn hiến lâu đời, khẳng định chiều dài lịch sử nghìn năm văn hiến của dân tộc, lập luận một cách hào sảng những chiến tích lừng lẫy của cha ông ta để góp phần giữ giang sơn vững chắc. Nếu như trước đó, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả Lý Thường Kiệt cũng khẳng định độc lập về chủ quyền, lãnh thổ của dân tộc, nhưng dựa vào những chứng cứ sách lực siêu nhiên là “thiên thư”, phần nào có sự trừu tượng, xa xôi. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã lấy quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc để làm bảo chứng, do đó vô cùng thuyết phục, gần gũi, mà rất đỗi thiêng liêng cao cả. Đồng thời, việc đặt ngang hàng nước ta với các nước phương Bắc phần nào giúp ta thấy được niềm tự hào, vẻ vang của chiều dài lịch sử dân tộc. Đặc biệt, trong đoạn thơ này, Nguyễn Trãi không chỉ khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mà còn thể hiện niềm tin sắt đá vào các thế hệ anh hùng hào kiệt, hiền tài quốc gia, đặt vào trong bối cảnh lúc bấy giờ, đó phần nào cũng thể hiện sự mới mẻ, tiến bộ của thi hào Nguyễn tiếp tục khẳng định những chiến tích hào sảng của dân tộc, nhà thơ tiếp tục đưa ra một loạt dẫn chứng thép khẳng định đanh thép, người đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù"Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi".Thất bại đấy của quân địch không chỉ thể hiện tham vọng cuồng vọng của quân địch, phải chuốc lấy tiêu vong, mà còn phần nào thể hiện khí thế hào hùng, tầm vóc lớn lao của anh hùng dân tộc. Đồng thời, nó giống như một bản bảo chứng hùng hồn, đanh thép cho những kẻ muốn lăm le xâm lược đất nước ta, rằng chúng chắc chắn sẽ chuốc lấy bại vong. Cách dùng những dẫn chứng mang tính liệt kê dồn dập phần nào giúp ta thấy được mạch khí thế oai phong, lẫm liệt, niềm tự hào vang dội của người viết bài cáo Bình Ngô, giống như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai đầy hào sảng của dân tộc Đại Việt. Đoạn thơ một vừa mở đầu như một khúc hùng ca hân hoan, vang vọng chiến công, chiến tích lẫy lừng để đanh thép buộc tội quân giặc man rợ ở phía sau..................................Trên đây VnDoc tổng hợp các dạng bài văn mẫu Phân tích đoạn thơ "Từng nghe, việc nhân nghĩa cốt ở yên dân... cho đến Chứng cứ còn ghi" - Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Bài viết được tổng hợp gồm có khái quát về tác giả tác phầm và 4 bài văn mẫu phân tích đoạn thơ trong bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hi vọng qua bài viết bạn đọc có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10. Ngoài ra để giúp các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 10 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 10 và biết cách soạn bài lớp 10 trong sách Văn tập 1 và tập 2. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham các bạn cùng tham khảo thêm tài liệu học tập của các bài liên quan đến tác phẩmSoạn bài lớp 10 Bình Ngô đại cáoPhân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn TrãiDàn ý Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi ​Tượng mảng Việc nhân-nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu-phạt chỉ vì khứ bạo, Như nước Việt ta từ trước, Vốn xưng văn-hiến đã lâu, Sơn-hà cương-vực đã chia, Phong-tục bắc nam cũng khác. Từ Đinh, Lê, Lý, Trần, gây nền độc-lập, Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, hùng-cứ một phương, Dẫu cường nhược có lúc khác nhau, Song hào-kiệt đời nào cũng có. Vậy nên Lưu Cung sợ uy mất vía, Triệu Tiết nghe tiếng giật mình, Cửa Hàm-tử giết tươi Toa Đô, ​Sông Bạch-đằng bắt sống Ô Mã, Xét xem cổ-tích, Đả có minh-trưng, Vừa rồi Vì họ Hồ chính-sự phiền-hà, Để trong nước nhân-dân oán bạn, Quân cường Minh đã thừa-cơ tứ ngược, Bọn gian-tà còn bán nước cầu vinh, Nướng dân đen trên ngọn lửa hung-tàn, Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai-vạ. Chước dối đủ muôn nghìn khoé, Ác chứa ngót hai mươi năm. Bại nhân-nghĩa nát cả càn-khôn, Nặng khóa-liễm vét không sơn-trạch Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống bể mò châu, Nào hố bẫy hươu đen, nào lưới dò chim trả, Tàn-hại cả côn-trùng thảo-mộc, Nheo-nhóc thay! quan quả điên liên Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy! no-nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục-dịch cho vừa, Nặng-nề về những nỗi phu-phen, Bắt-bớ mất cả nghề canh-cửi. Độc-ác thay! trúc rừng không ghi hết tội, Dơ-bẩn thay! nước bể khôn rửa sạch mùi, Lẽ nào trời đất tha cho, Ai bảo thần-nhân nhịn được. Ta đây Núi Lam-sơn dấy nghĩa, ​Chốn hoang-dã nương mình, Ngắm non sông căm nổi thế thù, Thề sống chết cùng quân nghịch-tặc, Đau lòng nhức óc, chốc là mười mấy nắng mưa, Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối, Quên ăn vì giận, sách lược-thao suy-xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng-phế đắn-đo càng kỹ. Những trằn-trọc trong cơn mộng-mị, Chỉ băn-khoăn một nỗi đồ hồi. Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc qnân thù đang thịnh. Lại ngặt vì Tuấn-kiệt như sao buổi sớm, Nhân-tài như lá mùa thu, Việc bôn-tẩu thiếu kẻ đỡ-đần, Nơi duy ác hiếm người bàn-bạc. Đôi phen vùng-vẫy, vẫn đăm-đăm con mắt dục đông Mấy thủa đợi chờ, luống đằng-đẵng cỗ xe hư-tả, Thế mà trông người, người càng vắng ngắt, vẫn mịt-mù như kẻ vọng dương, Thế mà tự ta, ta phải lo toan, thêm vội-vã như kh chửng nịch, Phần thì giận hung-đồ ngang-dọc, Phần thì lo quốc-bộ khó-khăn, Khi Linh-sơn lương hết mấy tuần, Khi Khôi-huyện quân không một đội, Có lẽ trời muốn trao cho gánh nặng, bắt trải qua bách chiết thiên ma, Cho nên ta cố gắng gan bền, chấp hết cả nhất sinh thập tử. ​Múa đầu gậy ngọn cờ phất-phới, ngóng vân-nghê bốn cõi đan hồ, Mở tiệc quân chén rượu ngọt-ngào, khắp tướng-sĩ một lòng phụ-tử. Thế giặc mạnh, ta yếu mà ta địch nổi, Quân giặc nhiều, ta ít mà ta được luôn. Dọn hay Đem đại nghĩa để thắng hung-tàn, Lấy chí nhân mà thay cường-bạo. Trận Bồ-đằng sấm vang sét dậy, Miền Trà-lân trúc phá tro bay, Sĩ-khí đã hăng, Quân-thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ, mất vía chạy tan. Phương Chính, Quí An tìm đường trốn-tránh. Đánh Tây-kinh phá tan thế giặc. Lấy Đông-đô thu lại cõi xưa, Dưới Ninh-kiều máu chảy thành sông, Bến Tụy-động xác đầy ngoài nội. Trần Hiệp đã thiệt mạng, Lý Lương lại phơi thây. Vương Thông hết cấp lo-lường, Mã Anh khôn đường cứu-đỡ Nó đã trí cùng lực kiệt, bó tay không biết tính sao, Ta đây mưu phạt tâm công, chẳng đánh mà người chịu khuất. Tưởng nó đã thay lòng đổi dạ, biết lẽ tới lui, Ngờ đâu còn kiếm kế tìm phương, gây mầm tội-nghiệt. Cậy mình là phải, chỉ quen đổ vạ cho người, ​Tham công một thời, chẳng bỏ bày trò dở-duốc. Đến nỗi đứa trẻ con như Tuyên-đức, nhàm võ không thôi. Lại sai đồ nhút-nhát như Thạnh, Thăng đem đầu chữa cháy. Năm Đinh-mùi tháng chín, Liễu Thăng tự Khâu-ôn tiến sang,[1] Mộc Thạnh tự Vân-nam kéo đến. Ta đã điều binh thủ hiểm, để ngăn lối Bắc-quân, Ta lại sai tướng chẹn ngang, để tuyệt đường lương-đạo. Mười-tám, Liễu Thăng thua ở Chi-lăng,[2] Hai-mươi, Liễu Thăng chết ở Mã-yên, Hai-mươi-lăm, Lương Minh trận vong, Hai-mươi-tám, Lý Khánh tự vẫn, Lưỡi dao ta đang sắc, Ngọn giáo giặc phải lùi, Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến rằm tháng mười diệt tặc. Sĩ-tốt ra oai tì-hổ, Thần-thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, Voi uống nước, nước sông phải cạn. Đánh một trận sạch không kinh-ngạc. Đánh hai trận tan-tác chim-muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê cũ. ​Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi, Hoàng Phúc tự trói để hàng. Lạng-giang, Lạng-sơn, thây chất đầy đồng, Xương-giang, Bình-than, máu trôi đỏ nước. Ghê-gớm thay! sắc phong-vân phải đổi, Thảm-đạm thay! sáng nhật-nguyệt phải mờ. Binh Vân-nam nghẻn ở Lê-hoa, sợ mà mất mật. Quân Mộc Thạnh tan chưng Cần-trạm, chạy để thoát thân, Suối máu Lãnh-câu, nước sông rền-rĩ, Thành xương Đan-xá, cỏ nội đầm-đìa. Hai mặt cứu-binh, cắm đầu trốn chạy, Các thành cùng khấu, cởi giáp xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội, Thể lòng trời bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh. Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể chưa thôi trống ngực, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến Tàu còn đổ mồ-hôi. Nó đã sợ chết cầu hòa, mở lòng thú-phục, Ta muốn toàn quân làm cốt, cả nước nghỉ-ngơi. Thế mới là mưu-kế thật khôn, Vả lại suốt xưa nay chưa có. Giang-san từ đây mở mặt, Xã-tắc từ đây vững-bền. Nhất-nguyệt hối mà lại minh, Kiền-khôn bĩ mà lại thái. Nền vạn thế xây nên chăn-chắn. Thẹn ngìn thu rửa sạch làu-làu. ​Thế là nhờ trời đất tổ-tông khôn-thiêng giúp-đỡ cho nước ta vậy. Than ôi! Vẫy-vùng một mảnh nhung-y, nên công đại định. Phẳng-lặng bốn bề thái-vũ, mở hội vĩnh-thanh, Bá cáo xa gần, Ngỏ cùng nghe biết. ▲ Tiếng sang với cháy không theo niêm. ▲ Tiếng lăng với đạo không theo niêm. Hai chỗ này là tự-sự có thể dùng lối tản hành, không theo niêm cũng được. Tất cả Lớp 12 Lớp 11 Lớp 10 Lớp 9 Lớp 8 Lớp 7 Lớp 6 Lớp 5 Lớp 4 Lớp 3 Lớp 2 Lớp 1 Trong tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” có câu “Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô –Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”. Thông tin trên có gì chưa đúng? Đô bị giết, Ô Mã Nhi bị bắt Đô bị bắt ở Chương Dương Mã Nhi bị giết ở Hàm Mã Nhi bị bắt ở Hàm Tử Tìm hiểu thêm về hai câu cửa hàm tử bắt sống toa đô sông Bạch đằng giết tươi ô mãTìm hiểu những trận chiến đó Các câu “Lưu Cung tham công nên thất bại – Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong – Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô – Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã” được dùng để thể hiện hành động kể. Đúng hay sai? A. Đúng B. Sai Vậy nênTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongSông Bạch Đằng giết tươi Ô đang xem Cửa hàm tử bắt sống toa đô A. Nghị luận + miêu tả B. Nghị luận + tự tự C. Miêu tả + tự sự D. Nghị luận + thuyết minh. Vậy nên“Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xétChứng cớ còn nghi.”Từ nội dung của văn bản trên, em hãy viết một đoạn văn khoảng 10 - 12 câu trình bày suy nghĩ của em về ý thức tự hào, tự tôn dân tộc. Tham khảoÔng đã nhắc lại nhiều chiến thắng lừng lẫy của nước Đại Việt như một lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù"Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi".Những tướng của nhà Tống, nhà Nguyên đều bị các tướng giỏi của ta đánh cho thất bại. Chúng vì "tham công", "thích lớn" nên phải chịu hậu quả nặng nề. Các sự kiện ấy còn được nhân dân ta lưu lại trong sử sách để muôn đời ghi nhớ. Các phép đối, so sánh ngang hàng các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phương Bắc cùng phép liệt kê và giọng điệu hào hùng, trang nghiêm ở đoạn thứ nhất của bài cáo đã thể hiện nổi bật tư tưởng nhân nghĩa của tác giả. Đúng 0 Bình luận 0 tham khảoLưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xétchứng cứ còn ghi. Đây là một đất nước có nhân nghĩa, có một nền văn hiến hết sức lâu đời và nhờ lấy “nhân nghĩa” làm triết lí sống nên mới có được nền văn hiến lâu đời đến như vậy, mới đánh thắng được bọn xâm lược phương Bắc, những kẻ không có chút “nhân nghĩa” đó. Hơn nữa, qua phần một của bài cáo, ta còn cảm nhận được tấm lòng của Nguyễn Trãi đối với đất nước Ông hết sức tự hào về non sông này và ông đã thể hiện niềm yêu nước thật mãnh liệt. Tấm lòng ấy chắc chắn sẽ không bao giờ phai nhạt theo năm tháng và thời gian Đúng 0 Bình luận 0 Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. cho mình hỏi bài thơ trên vi pham phương chăm hội thoại nào ?? Lớp 9 Ngữ văn Hướng dẫn soạn bài Các phương châm hội thoại 1 0 Gửi Hủy đoạn thơ không vi phạm nhé bạn.....nó chỉ nói đến phương châm hội thoại về chất nêu các dẫn chứng có thật trong lịch sử Đúng 0 Bình luận 2 Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. vi phạm phương chăm hội thoại nao zạy các bạn ??? Lớp 9 Ngữ văn Văn bản ngữ văn 9 1 0 Gửi Hủy phương châm cách thức hay sao đó bn Đúng 0 Bình luận 0 Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo giúp với Lớp 7 Lịch sử Bài 21. Ôn tập chương IV 4 0 Gửi Hủy Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh chóng. Đúng 2 Bình luận 1 tham khảo bài làm ạCâu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo Phật. Đúng 1 Bình luận 1 Câu 28 Với chiến thắng Bạch Đằng năm 1288, quân ta đã bắt sống tướng nào của quân Nguyên?A. Toa Đô. B. Thoát Hoan. C. Hốt Tất Liệt. D. Ô Mã 29 Nhà Trần khi thực hiện kế sách "vườn không nhà trống" không nhằm mục đích nào sau đây?A. Tránh sức mạnh ban đầu của quân Mông CổB. Khoét sâu vào điểm yếu của quân Mông CổC. Củng cố lực lượng chờ phản côngD. Đánh nhanh thắng nhanhCâu 30 Trong xã hội thời Trần tầng lớp thấp kém nhất làA. Nông dân. B. Thợ thủ công. C. Nô tì, nông nô. D. Thương 31 Tình hình Phật giáo dưới thời Trần như thế nào?A. Vẫn phát triển nhưng không bằng thời Thời Trần Phật giáo trở thành quốc Phật giáo suy yếu nhanh Nhà Trần cấm truyền bá đạo Phật. Đúng 1 Bình luận 0 Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu…Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng nênLưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Trích Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi1. Trong đoạn trích, Nguyễn Trãi đã đưa ra những cơ sở nào để khẳng định nền độc lập, chủ quyền của nước ta? Nêu nhận xét của em về những cơ sở Tìm và phân tích hiệu quả của các biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích?3. Bày tỏ cảm nghĩ của em về đoạn văn trên học sinh có thể gạch ý Lớp 10 Ngữ văn 0 0 Gửi Hủy Lớp học trực tuyến KHTN 7- Cô Quyên, cô Hương Toán 7- Thầy Dương Khoá học trên OLM hoặc $2$ $\square $ $+1$ $3,$ Phân tích cách xác lập luận đề chính Nghĩa của Nguyễn Trãi trong đoạn đầu Đại Cáo Bình Ngô. Từng $ngne,$ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Núi sông bờ cỏi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi." $y$ Đại Cáo Bình Ngô – Nguyễn Trãi Bạn đang xem Cửa hàm tử bắt sống toa đôSau khi nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của quân Minh, cuộc kháng chiến của quân dân Đại Việt đã hoàn toàn thắng lợi. Mùa xuân năm 1428, thừa lệnh chủ soái Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo để tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại, báo cáo rộng rãi cho toàn thể nhân dân được nghệ thuật chính luận hùng hồn và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của giặc Minh, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Bài cáo mở đầu bằng nguyên lí chính nghĩa dựa trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà Nguyễn Trãi rất coi trọng và khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của giặc Minh"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạo".Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ “yên dân” trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà thế nữa, chính là lấy dân làm gốc là quy luật của mọi thời đại, dân là nòng cốt, là tài sản, là sinh khí của một quốc gia. Tư tưởng này đơn giản nhưng sâu sắc. Trong các cuộc kháng chiến,nếu dân mạnh, lòng dân yên thì đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù. Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lí khách quan. Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phươngTuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,Song hào kiệt đời nào cũng cóĐại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng, từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm cùng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia có chủ quyền độc lập, tự với bài Thơ Thần của Lí Thường Kiệt thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lí Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên và bổ sung thêm bốn nguyên tố nữa là "văn hiến","phong tục tập quán","lịch sử" và "nhân tài". Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc "mỗi bên xưng đế một phương" hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyền của quốc gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn ghi trong lịch sử"Vậy nênLưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu Hàm Tử bắt sống Toa Đô,Sông Bạch Đằng giết tươi Ô xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi".Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Và trong những cuộc kháng chiến, dân tộc ta đã ghi công oanh liệt, giữ gìn tự do của Tổ Quốc. Thêm vào đó là sự căm ghét, khinh bỉ những kẻ xâm lược ta không biết lượng sức mình. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo. Đại Việt là quốc gia độc lập tự chủ, có nhân tài tướng giỏi không thua kém gì với một quốc gia nào. Phải lấy dân làm gốc và gắn với lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Khẳng định lập trường chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa của kẻ vẫn chưa hiểu lắm?Hỏi Gia sư hỏi tương tựNghị luận văn học Phân tích đoạn thơ sau "Từng $nghe$ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau $Song$ hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên bại, Lưu Cung tham công nên thất Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn $\bar{61} $ $29$ Nguyễn Trãi Bình – Ngô đại cáo THPTXem thêm 10 Cách Chữa Viêm Tuyến Tiền Liệt Hiệu Quả Mà Bạn Nên Biết, Dấu Hiệu Của Bệnh Viêm Tiền Liệt Tuyến Ở Nam GiớiXã hộiXem lời giảiNghị luận văn học Phân tích đoạn thơ sau "Từng $ngne$ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên bại, Lưu Cung tham công nên thất Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi." $33$ Nguyễn Trãi – Bình Ngô đại cáo -Hết- THPTXã hộiXem lời giảiNghị luận văn học $0$ Phân tích đoạn thơ sau "Từng $ngne$ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời $X$ xây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tổng, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên Lưu Cung tham công nên thất bại, $1_{3}$ Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong, Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét, Chứng cớ còn ghi." $99$ Nguyễn Trãi – Bình Ngô đại cáo $\right$

cửa hàm tử bắt sống toa đô